Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi" Những lí lẽ và dẫn chứng trên đã một lần nữa khẳng định sự đúng đắn của câu ca dao trên , khẳng định đó cũng chính là một chân lí của cuộc sống , một cơ sở đạo đức của xã hội , của con người .
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Đây là lời hát ru của bà, của mẹ trên cánh võng đong đưa giữa trưa hè nóng bức hay trong những đêm đông giá rét. Am điệu của lời ca giống như lời tâm tình thủ thỉ, thiết tha, sâu lắng. Lời ru thường gắn liền với những quan hệ tình
NSMq31M. Người xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh sống vùng kênh rạch sông nước , cứ từ nơi này qua nơi kia phải đi bằng ghe xuồng , nhứt là bơi xuồng qua mấy cái Cù Lao nho nhỏ nổi lên giữa sông , thí dụ như Cù Lao Ông Chưởng nổi tiếng trong các bài ca dao bài vè “Bao phen quạ nói với diều Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm”. Hay “Công cha như núi ngất trời. Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông. Cù Lao chín chữ ghi lòng con ơi!” Nói vậy chớ chữ Cù Lao nói về các hòn đảo nhỏ trên sông và chữ Cù Lao nói về công ân sanh thành của cha mẹ có liên quan gì nhau chăng? Cù lao Chàm là một điểm đến du lịch nổi tiếng ở Đà Nẵng Tôi xin được phân tách, hai chữ Cù Lao này đều ghi chữ Hán khác nhau hoàn toàn Thứ nhứt Cù Lao nghĩa trong “công ơn cha mẹ” tiếng Hán ghi là 苦勞, chánh xác phiên âm Hán Việt được ghi là “Khổ Lao” thay vì là Cù Lao như các bài ca dao trên. Khổ là Khổ cực , Lao tức Lao tâm tổn trí. Thứ hai chữ Cù Lao để nói về “đảo trên sông” được ghi là 劬勞, tiếng Hán Việt là “Cù Lao”. Hai chữ này ghép lại hoàn toàn vô nghĩa trong tiếng Hán. Đó chỉ là hình thức mượn chữ Hán để chỉ đọc lại tiếng “hòn đảo” từ tiếng gốc Mã Lai gọi là “pulau”, Các bạn sẽ thấy lạ là tại sao ở Nam kỳ lại có âm Mã Lai. Gốc Mã Lai chánh là gốc người nước Phù Nam cổ trên cùng đất này từ thế kỷ thứ 4 sau bị Chân Lạp thâu tóm thành Thuỷ Chân Lạp và sau này sát nhập với đất của các Chúa Nguyễn qua cuộc lương duyên với công nữ Ngọc Vạn. Trong câu “Bắc thang lên hỏi ông Trời” Thang = Tangga Mã Lai, và Trời cũng là tiếng Mã Lai cũng còn dùng hiện nay. “Thang” trong tiếng Việt bắt nguồn từ “Tangga” của tiếng Mã Lai Sau này khi người Việt và người Minh Hương tới đất Nam Kỳ, họ chỉ sử dụng tiếng Hán là chủ yếu nên đã Hán hóa một số từ ngữ bản địa thành ngôn của mình cho dễ đọc và ghi chép lại – trong đó có chữ Pulao của người Mã là Đảo. Phiên âm Hán Việt là 劬勞 cù lao vì vùng đất này là của Chân Lạp trước khi họ đến nên chắc là người Chân Lạp ko dùng Hán tự rồi. Việt Nam ta cũng có nhiều Pu Lao …như Cù lao Chàm, Cù lao Giêng, Cù lao Phố, Cù lao Rồng Dĩ nhiên là hai tiếng “cù lao” trên đây chẳng có liên quan gì đến hai tiếng cù lao dùng để nói về công lao cha mẹ. Một đằng là từ gốc Mã Lai còn một đằng lại là từ gốc Hán. “Cù lao” – Một đằng là từ gốc Mã Lai còn một đằng lại là từ gốc Hán Khi nói về “Công ân cha mẹ” chính xác phiên âm ra là chữ “Khổ Lao” hay “Cù Lao” phát âm từ tiếng Hán gần như nhau nên họ phát âm y xì. Rồi khi chữ Quốc Ngữ la tinh ra đời họ đọc phát âm sao thì ghi ta y chang vậy nên mới co các câu ca dao nói về âm dưỡng dục của cha mẹ bằng hai chữ “Cù Lao”. “Thương thay chín chữ cù lao Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình”. “Chín chữ cù lao” Cửu tự cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sinh dưỡng con cái. Chín chữ đó là Sinh 生 sinh đẻ. Cúc 鞠 nâng đỡ. Dục 育 dạy dỗ. Phủ 撫 vuốt ve. Xúc 蓄 cho bú sữa. Trưởng 長 nuôi cho khôn lớn. Cố 顧 trông nom. Phục 復 ôm ấp. Phúc 腹 bảo vệ. Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi Nói tiếp chơi còn một thứ cù lao nữa mà có lẽ bạn chưa nghe nói đến. Thứ “cù lao” này thuộc về lãnh vực ẩm thực trong tiếng Việt của miền Nam, mà “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức Khai Trí, Sài Gòn, 1970 giảng là “Cái lẩu, đồ đựng thức ăn có nước, giữa có ống đựng than lửa”. Bị chánh giữa cái nồi có cục nhô lên như mấy cái “cù lao” giữa sông nên dân gian gọi là cái Cù Lao. Trước năm 1955, khi tác giả của những dòng này chưa ra Bắc thì ở trong Nam, người ta vẫn còn gọi cái lẩu là “cù lao”. Lẩu là đồ đựng thức ăn có nước, giữa có ống đựng than lửa Đến năm 1975, khi trở về thì đã nghe bàn dân thiên hạ gọi cù lao thành lẩu. Thêm cái ngộ nghĩnh lắm nè Do tầm nhìn xưa còn hạn chế, nên dân Việt mình hồi lúc chưa được nhìn ra bao la thế giới mà chỉ lòng vòng trên sông nước. Người Việt chưa biết rằng xa thẳm ngoài đại dương cũng có những “cù lao” nổi trên mặt nước, thì họ tự cho rằng các “các cục đất nhô giữa sông hồ” đều là Pulao Cù lao còn Đảo tức cục đất nhô lên giữa lòng đại dương biển cả. Chữ Pulao trong tiếng Mã Lai và Đảo/島 trong tiếng Hán đều chỉ những hòn đảo dầu cho trên sông hay trên biển – tiếng Anh đều gọi là “Island” hết thảy. Do bởi đất Nam Kỳ từng là vùng đất dung dưỡng nhiều sắc tộc khác nhau cung chung sống nên ngôn ngữ văn hoá tôn giáo cung phong phú lắm. SỬ NƯỚC NAM Nguồn Facebook
Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Bài ca dao này đã làm xúc động lòng người bởi đã gợi nên công ơn trời bể của cha mẹ đối với những người con thân yêu của mình. Tác giả dân gian nhắc đến “công cha”, “nghĩa mẹ”, đó là công sinh thành, dưỡng dục; đó là ơn nghĩa mang nặng đẻ đau và những yêu thương mẹ dành cả cho con. Ví “công cha”, “nghĩa mẹ” như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông là lấy cái trừu tượng của tình phụ tử, tình mẫu tử so sánh với cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên. Ví công cha với núi ngất trời là khẳng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng và sự dạt dào. Đây cũng là một nét riêng trong tâm thức của người Việt. Hình ảnh người cha thì rắn rỏi, mạnh mẽ, cha như cột trụ trong gia đình. Hình ảnh mẹ không lớn lao, kì vĩ nhưng sâu xa, rộng mở và dạt dào cảm xúc hơn. Bởi vậy, nghĩ đến công ơn cha mẹ, bài ca dao thiết tha nhắn nhủ những người con “ghi lòng con ơi!” những công ơn trời bể ấy. Và hơn thế là định hướng về cách sống, cách bày tỏ lòng biết ơn dành cho cha cho mẹ.
Câu 8 Đọc bài ca dao sau đây “Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”Bài ca dao trên là lời của ai nói với ai?.A. Lời của cha mẹ nói với con Lời của ông bà nói với con Lời của mẹ nói với con Lời của anh em khuyên nhủ lẫn 9 Đọc câu ca dao sau đây Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả ảnh con tằm trong câu ca dao trên nói đến cuộc đời, thân phận của những ai trong xã hội ngày xưa?A. Những cuộc đời nô lệ, suốt đời bị bóc lột sức lao Những thân phận nhỏ nhoi vất vả, khổ cực suốt đời mà vẫn nghèo Những cuộc đời lận đận, phiêu bạt tha phương để kiếm Thân phận thấp cổ bé miệng với nổi khổ, nổi đau oan trái suốt 10 Câu thơ nào trong bài “Bánh trôi nước” miêu tả vẻ đẹp về hình thể của người phụ nữ?A. Câu 1 B. Câu 2C. Câu 3 D. Câu 4Câu 11 Đọc những câu ca dao sau đây Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm định ý nghĩa của điệp ngữ “Thương thay” trong những câu ca dao Phản ánh chân thật nỗi khổ của người nông dân ngày Nhấn mạnh nỗi khổ của người nông dân ngày Lên án nỗi khổ của người nông dân ngày Đồng cảm sâu sắc với thân phận người nông dân ngày 12 Trong văn bản “M ẹ tôi” của Et -môn-đô -đơ A -mi-xi . Em hãy cho biết bố của En - ri -cô là người như thế nào?A. Rất thương yêu và nuông chiều conB. Luôn nghiêm khắc và không tha thứ lỗi lầm cho conC. Yêu thương, nghiêm khắc và tế nhị trong việc giáo dục Luôn thay thế mẹ giải quyết mọi vấn đề trong gia 13 Câu nào nêu đúng nội dung chính bài “Phò giá về kinh”.A. Thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc .B. Lời động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu chống kẻ thù .C. Lời ca ngợi tinh thần chiến đấu chống kẻ thù xâm lược .D. Là khúc ca khải hoàn mừng chiến 14Tâm trạng của tác giả trong bài “Qua Đèo Ngang”là tâm trạng như thế nào?A. Yêu say đắm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất Đau xót, ngậm ngùi trước sự đổi thay của quê Buồn thương da diết khi phải sống trong cảnh cô Cô đơn trước thực tại, da diết nhớ về quá khứ của đất Tiếng Việt Câu 15 Tìm từ trái nghĩa phù hợp để điền vào câu sau đây “ Xét mình công ít tội …..”A. Đầy B. Nhiều . C. Giàu D. HaiCâu 16Trong các dòng sau đây, dòng nào nêu đúng khái niệm thành ngữ? ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn ngữ là loại cụm từ có vần, có điệu biểu thị một ý nghĩa hoàn Thành ngữ là một tổ hợp từ có danh từ hoặc tính từ làm trung Thành ngữ là một kết cấu chủ vị, biểu thị một ý nghĩa hoàn 17 Xác định từ láy trong những từ sau đây A. Đằng đông B. Sáng sớm C. Thơm tho D. Đây 18 Xác định từ Hán Việt trong những từ sau đây A. Nhân loại . B. Dịu dàng . C. Yêu mến D. Buồn phiềnCÂU 19 Đọc hai câu thơ sau đây “Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trông dòng thác trước sông này”Hãy xác định từ đồng nghĩa với từ trông ở câu thơ thứ hai . A. Mong B. Nhìn C. Đợi D. ChờCâu 20 Câu nào nêu đúng khái niệm từ đồng nghĩa? đồng nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống đồng nghĩa là những từ phát âm giống nhau nhưng có nghĩa khác xa Từ đồng nghĩa là những từ giống nhau cả về âm thanh và ý 21Trong câu“Nhà bạn có bao nhiêu người? ” Đại từ“ bao nhiêu”dùng đểA. Chỉ về người B. Chỉ về lượngC. Hỏi về người D. Hỏi về hoạt động tính 22 Từ nào sau đây đồng nghĩa với từ “Thi nhân” A. Nhà thơ B. Nhà báo C. Nhà văn D. Nghệ 23Trong những dòng sau đây, dòng nào là thành ngữ có dùng phép so sánh?A. Một nắng hay sương B. Lá lành đùm lá ráchC. Đen như cột nhà cháy . D. Ếch ngồi đáy giếng .
Soạn ngữ văn lớp 6 lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk Câu hỏi + em hiểu như thế nào về câu thơ" Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi" "Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!" Bài ca dao trên là lời của ai nói với ai? Nói về điều gì? Xem chi tiết Chỉ ra và phân tích tác dụng các biện pháp tu từ trong các câu sau Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài Biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi Xem chi tiết Công cha như núi ngất trờiNghĩa mẹ như nước ở ngoài biển ĐôngNúi cao biển rộng mênh môngCù lao chín chữ ghi lòng con ơi!hãy cho biết từ đơn , từ láy và từ ghép trong ca dao trên ai biết giúp em với ạ Xem chi tiết Cho bài thơ sauCông cha như núi ngất trờiNghĩa mẹ như nước ở ngoài Biển Đông Núi cao biển rộng mênh môngCù lao chín chữ ghi lòng con ơiC1Bài thơ trên thể thơ gì? Vì sao có thể xác định được? C2Đề tài?Nội dung? C3Bptt? Tác dụng Xem chi tiết "Núi cao biển rộng mênh môngCù lao chín chữ,ghi lòng con ơi!"tại sao bài ca dao lại nhắc lại hình ảnh"núi cao,biển rộng"?từ láy "mênh mông" có tác dụng gì? Xem chi tiết câu 1 viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về hai câu thơ sau trong bài thơ mây và sóng của ta-go con lăn,lăn,lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta chốn nơi nào Xem chi tiết C1em hiểu nội dung dòng thơ " không có bố,không thì giờ " như thế nào?C2từ âm thầm xét về cấu tạo là từ gì? em hãy chỉ ra hiệu quả của việc sử dụng từ này trong câu thơ? Xem chi tiết em hiểu câu thơ "có lời mẹ hát. ngọt bùi đắng cay như thế nào"? Xem chi tiết Viết một đoạn văn khoảng 150 đến 200 chữ ghi lại cảm xúc của em về bài ca dao“Bình Định có núi Vọng PhuCó đầm Thị Nại, có cù lao về Bình Định cùng anh,Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.” Xem chi tiết
Con người Việt Nam vốn xem trọng và đề cao gia đình. Cội nguồn của tình cảm bao giờ cũng bắt đầu từ tình cảm gia đình, tình yêu thương và lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ. Điều này được diễn tả phong phú, sâu sắc, tinh tế qua văn học dân gian nói chung và đặc biệt là qua ca dao, dân ca. Bài ca dao sau đây là một trong số bài rất hay về tình cảm gia đình Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Chân thành, thân mật, ấm áp mà vẫn thiêng liêng, trang trọng, bài ca dao đem đến cho ta khúc dạo nhẹ nhàng, âm điệu thủ thỉ của giai điệu hát ru. Có lẽ đây là lời ru của mẹ giành cho đứa con bé bỏng đang ngủ ngon trong vòng tay yêu thương. Lời ru con đồng thời là lời nhắc nhở con về công lao trời biển của cha mẹ và trách nhiệm, bổn phận của đạo làm con. Cha mẹ những người gần gũi nhất với chúng ta ấy đã cho chúng ta biết bao điều. Trước tiên là cho ta sự sống, cho ta được có mặt trên cuộc đời này. Rồi bằng vòng tay êm ái mẹ nâng niu ta, ru vỗ ta, bằng dòng sữa ngọt lành, mẹ nuôi ta lớn khôn và bằng những lời ru êm dịu mẹ nuôi phần hồn ta, đem đến cho ta những bài học của đạo làm người. Những bài học mà "ta đi trọn kiếp con người" cũng không đi hết. Không chỉ có mẹ, ta còn có vòng tay và bờ vai vững chãi của cha. Vòng tay và bờ vai ấy cho ta điểm tựa để bước vào đời, ta đem theo nó để làm hành trang trong suốt hành trình dài rộng của cuộc sống. Điều thiêng liêng ấy được tác giả dân gian nói thật giản dị. Phép so sánh ngang bằng Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông đã làm nổi bật công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Lấy cái trừu tượng công cha, nghĩa mẹ để so sánh với những sự vật, hình ảnh cụ thể núi ngất trời, nước biển Đông, tác giả dân gian không chỉ đem đến cho ta nhận thức về nghĩa mẹ bao la, công cha vời vợi mà còn giúp ta cảm nhận về sự vĩnh hằng bất biến của công cha, nghĩa mẹ. Như núi cao kia, như nước biển kia đã có mặt và tồn tại ngàn đời trên trái đất, công cha, nghĩa mẹ hiện diện quanh ta từ lúc ta được làm người cho đến tận cùng của cõi người. Cách so sánh, ví von rất quen thuộc của ca dao xưa đã đem đến cho ta những nhận thức thật sâu sắc, thật thấm thía. Không chỉ thế ngọn núi cao và biển rộng còn được cụ thể hoá bằng những tính từ chỉ mức độ núi - ngất trời biển rộng mênh mông. Cụ thể, hài hoà mà vẫn rất gợi cảm, và vì thế nó tác động mạnh vào nhận thức con người. Đỉnh núi cao loà nhoà ẩn hiện trong mấy kia liệu ta có đo nổi như chính công lao của cha làm sao ta kể hết? Biển mênh mông kia như lòng mẹ yêu ta có thể nào vơi cạn? Thật khéo léo và chính xác khi lựa chọn núi cao ngất trời và nước biển mênh mông để so sánh với công lao cha mẹ. Bời chỉ có những hình ảnh cao lớn, không cùng và sự tồn tại đời đời của nó mới xứng đáng để tả và diễn tả được đầy đủ, chính xác công sinh thành, dưỡng dục, thứ công lao không bao giờ tính đến được bằng giá trị vật chất, thứ công lao bất tử qua thời gian, năm tháng. Bằng hình ảnh so sánh xưa mà không cũ, bằng âm điệu ngọt ngào của lời hát ru, tác giả dân gian vừa khẳng định, vừa ca ngợi công lao cha mẹ. Lời ca ngợi không khố khan, nặng giáo huấn mà là tiếng nói của tấm lòng, tình cảm, tiếng nói tâm tình từ trái tim tìm đến với trái tim làm lay động lòng ta. Ngoài cách nói trên, ta còn bắt gặp nhiều bài ca dao khác cũng nội dung tương tự Ơn cha nặng lắm ai ơi Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang hay Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Và dù cách nói có chút khác nhau những câu ca dao ấy vẫn đem đến cho chúng ta cảm nhận sâu sắc về công cha, nghĩa mẹ. Tiếp tục dòng tâm tình ấy, tác giả dân gian đi đến cái kết rất tự nhiên nhưng vô cùng thấm thía Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi Cách sử dụng sáng tạo thành ngữ "chín chữ cù lao" để nhắc lại một lần nữa nỗi khó nhọc, vất vả của mẹ cha. Chín chữ ấy là sính - đẻ, cúc - nâng đỡ, phủ - vuốt ve, súc - bú mớm, trưởng - nuôi lớn, dục - dạy dỗ, cố - trông nom, phục - theo dõi, phúc - giữ gìn. Thử hỏi có ai trong chúng ta không được cha mẹ giành cho những điều ấy, không chỉ góỉ gọn ở con số chín chữ bởi công lao cha mẹ là vô cùng, vô tận. Để rồi từ đó, ta nhận được lời nhắc nhở về thái độ và hành động của mỗi người "ghi lòng con ơi". Lời nhắc nhở ngắn gọn mà thấm thía sâu sa, chân thành và có sức lay động lòng ta. Tác giả dân gian không nhắc ta phải trả công cho những hi sinh của cha mẹ, trả công cho những gì mà ta được đón nhận. Điều đó là không tưởng bởi trên đời này, chỉ tình cảm là thứ không bao giờ người ta đo đếm và sòng phẳng được với nó. Tình cảm của cha mẹ lại càng vô giá. Bởi vậy chỉ cần ghi lòng thôi nhưng đó là sự tạc ghi trong sâu thẳm tâm hồn không phai nhạt qua thời gian. Giản dị mà sâu sắc. Nhẹ nhàng mà xuyên thấm, bài ca dao gieo vào lòng người cảm giác bâng khuâng, tác động vào trí tuệ người đọc để đi đến những nhận thức sâu sắc. Và dù tác động bằng con đường nào, bài ca dao ấy thực sự đã làm cho ta luôn "ghi lòng" công ơn cha mẹ.
cù lao chín chữ ghi lòng con ơi